GIỚI THIỆU VỀ VĂN HÓA CHĂM PA QUA MỘT SỐ QUYỂN SÁCH

  • 26/02/2025
  • 352
Cỡ chữ: Giảm (A-) Mặc định (A) Tăng (A+) Nghe



    Về nền văn hóa Chăm Pa

    Chăm Pa nền văn hoá được hình thành trên nền tảng nền Văn hoá Sa Huỳnh dọc dải đất duyên hải miền Trung nước ta. Nền văn hoá Chăm Pa cổ, mà hậu duệ của họ là đồng bào dân tộc Chăm (hay người Chàm) đã sống chung đụng và giao lưu văn hoá sâu sắc với người Việt từ hàng ngàn năm. Chủ nhân của nền văn hoá Chăm Pa dùng ngôn ngữ Chăm - thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo, ngữ hệ Nam Đảo.

    Thời Bắc thuộc, lãnh thổ Vương quốc Chăm Pa là quận Nhật Nam, liền kề với Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía bắc Việt Nam.

    Theo quyển sách Văn hóa cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, các cuộc nổi dậy của cư dân quận Giao Chỉ, Cửu Chân mà tiêu biểu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đã làm cho ách đô hộ của nhà Hán suy yếu dần.

    Lợi dụng thời cơ đó, cùng vị trí cách xa chính quyền đô hộ, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam. Sau đó, năm 192, dưới sự lãnh đạo của một nhân vật tên là Khu Liên, cư dân Tượng Lâm đã chấm dứt sự đô hộ của phương Bắc, lập ra một nhà nước độc lập với tên gọi Lâm Ấp.

    Khu Liên là sự chuyển âm của một từ bản địa: Kurung, tức tộc trưởng, hay vua. Thế là, vào cuối thế kỷ II, tại vùng trung tâm của nền văn hóa kim khí Sa Huỳnh đã ra đời một nhà nước – nhà nước Lâm Ấp hay nhà nước của Khu Liên. Giáo sư Trần Quốc Vượng, người chủ biên công trình Những di tích thời tiền sử và sơ sử ở Quảng Nam - Đà Nẵng, đã nhận định rằng, “Nhà nước của Khu Liên ở cuối thế kỷ II trong sách cổ Trung Hoa (Thủy Kinh chú) có lẽ chỉ là sự tái sinh hay hồi sinh của Nhà nước cổ Sa Huỳnh”.

    Lâm Ấp, qua các thời kỳ, lần lượt đổi tên thành Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Danh xưng Chăm Pa xuất hiện đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ Campa-nagara (Vương quốc Champa).

    Như nhiều quốc gia cổ đại khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á, Vương quốc Chăm pa gồm nhiều tiểu quốc hợp thành, với ít nhất 5 tiểu quốc (được liệt kê theo hướng từ bắc vào nam) gồm:

    1. Indrapura (từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế)

    2. Amarvati (Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi)

    3. Vijaya (Bình Định, Phú Yên)

    4. Kauthara (Khánh Hòa)

    5. Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận)

    Vương quốc Chăm Pa tồn tại suốt hơn 1300 năm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Chăm Pa từng là một quốc gia hùng mạnh và có mối liên hệ mật thiết với Đại Việt. Có thời gian, những cuộc xung đột giữa Đại Việt và Chăm Pa diễn ra liên miên, lại có thời gian hai nước Đại Việt và Chăm Pa đã cùng liên minh lại với nhau để chống lại giặc Nguyên – Mông trong suốt một thế kỷ (1287 – 1390). Sau đó là câu chuyện cưới gả giữa hai triều đình Việt – Chăm.

    Đó là cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân (con gái vua Trần Nhân Tông), và quốc vương Chăm Pa Chế Mân (Jaya Simhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, châu Lý (toàn bộ đất của hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị ngày nay).

    Cuộc hòa hiếu giữa hai vương triều không duy trì được lâu, một khoảng thời gian sau, khi vua Chế Mân băng hà, Chăm Pa và Đại Việt lại tiếp tục rơi vào xung đột.

    Sau cuộc viễn chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1471, Chăm Pa coi như chấm dứt sự tồn tại của mình như một quốc gia độc lập. Từ thời điểm này trở đi, Chăm Pa tiếp tục phải lui dần, lui dần.

    Tới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga. Từ đây, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn, vua Chăm được gọi là Trấn Vương, cai trị Thuận Thành Trấn, dưới sự giám sát chặt chẽ của các quan lại thời chúa Nguyễn.

    Theo Quốc Triều Chính Biên Toát yếu, Năm 1832, người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Vua Minh Mạng thấy vậy, đổi Thuận Thành trấn thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp (tức chấm dứt sự cai trị của vua Chăm). Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức khép lại ở đây.

    Những ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ

    Theo quyển sách Văn hóa cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, Chăm Pa, cũng như ở những quốc gia cổ đại khác trong khu vực Đông Nam Á, vì tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ để phục vụ cho vương quyền, nên vua chúa và tầng lớp trên, đã làm cho những ảnh hưởng của Ấn Độ nhanh chóng bén rễ và trùm lên khắp các lĩnh vực văn hóa cung đình.

    Cũng vì nhằm mục đích phục vụ vương triều, các vua chúa Chăm Pa đã phải nhanh chóng biến những ảnh hưởng của Ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước mình. Với bia ký Đông Yên Châu (Quảng Nam) thế kỷ IV-V, Chăm Pa là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á đã dựa trên văn tự Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ đó trở đi, ở Chăm Pa, bên cạnh chữ Phạn đã tồn tại và phổ biến chữ viết của người Chăm.

    Cũng ngay từ thế kỷ IV-V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết bên cạnh các vị thần Ấn Độ, các vua chúa Chăm còn duy trì những tín ngưỡng bản địa. Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là sự tôn kính và sùng bái của các vua chúa Chăm Pa dành cho nữ thần mẹ của xứ sở - nữ thần Pô Inư Nagar. Muộn hơn việc thờ Pô Nagar là việc triều đình và dân chúng Chăm Pa đã thần hóa vua chúa của mình (như trong trường hợp thờ vua Pô Klaung Garai và vua Pô Rômê) và thờ các vị vua đó dưới dạng Siva tại các tháp lớn.

    Khi những ảnh hưởng từ Ấn Độ tràn tới, người dân Chăm Pa đã tiếp nhận triệt để các mô hình kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc của người Ấn. Tuy vẫn mô phỏng các mô hình đền  thờ Ấn Độ, với chất liệu gạch và kỹ thuật xây dựng gạch kỳ diệu, người Chăm xưa đã tạo ra những ngôi tháp có bản sắc riêng không lẫn vào đâu được. Cũng như ở Ấn Độ, những đền tháp lớn của Chăm Pa là hình ảnh biểu tượng cho núi thần Mêru, nơi ngự của các thần linh.

    Về sự trường tồn của đền tháp Chăm

    Các đền tháp Chăm đã đứng vững trước thời gian và khí hậu có phần khắc nghiệt của dải đất miền Trung Việt Nam. Theo quyển sách Văn hóa cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, nếu xét dưới góc độ bị bỏ hoặc không được sử dụng thì nhiều tháp Chăm cổ, nhất là những tháp Chăm ở những nơi không có người Chăm ở (những tháp nằm từ Phú Yên ngược ra tới đèo Hải Vân), thực sự đã bị lãng quên trong nhiều thế kỷ.

    Nếu xét dưới góc độ không ai biết gì tới hay bị rừng sâu, núi thẳm nuốt chửng như các đền tháp Angkor, Borobudur, Ajanta... thì, các tháp cổ Chăm Pa lại không bị lãng quên. Làng xóm của người Việt ở ngay bên các ngôi tháp Chăm cổ kính; tên làng của người Việt trở thành tên gọi của các ngôi tháp Chăm trong khu vực của làng; thậm chí, người Việt còn dựng đền miếu của mình ngay trên khu đất của các ngôi tháp Chăm, và trong một số trường hợp - như đối với tháp Pô Nagar, tháp Nhạn - người Việt còn dùng luôn các tháp Chăm làm đền thờ của mình. Dù không sử dụng hay sử dụng, bao giờ người Việt cũng biết các ngôi đền tháp cổ trên đất mình đang ở là của người Chăm xưa.

    Cho đến nay, chưa hề có (cả trong thư tịch lẫn trên thực tế) trường hợp nào nói tháp Chăm là đối tượng phá hủy của người Việt, mặc dầu đối tượng thờ phụng của các tháp của người Chăm rất khác so với người Việt. Trong khi đó, lịch sử nhân loại cho thấy rất nhiều đền đài miếu mạo nổi tiếng đã bị hủy diệt vì những mâu thuẫn tôn giáo.

Cũng theo tác giả Ngô Văn Doanh, sự bao dung tôn giáo của người Việt, là một trong những nguyện nhân quan trọng khiến các tháp cổ Chăm Pa vẫn còn lại khá nhiều và khá nguyên vẹn cho đến nay.

    Theo quyển sách Văn hóa cổ Chăm Pa, qua những đợt điều tra, nghiên cứu trong nhiều năm qua, tác giả phát hiện khá nhiều tác phẩm điêu khắc đá, gỗ, đồng của các đền tháp Chăm Pa được bảo vệ và thờ tự trong các đền, chùa của người Việt ở các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng tới Bình Thuận.

    Cuốn địa lý lịch sử đồ của triều Nguyễn Đại Nam nhất thống chí đã mô tả, định vị gần như toàn bộ những ngôi tháp cổ của Chăm Pa một cách khá chi tiết và đầy đủ về mặt địa lý, địa danh. Do khác biệt về tôn giáo, nên người Việt hầu như đã không sử dụng những ngôi tháp Chăm tại những nơi mình đến ở làm đền, chùa của mình. Duy nhất, chỉ tháp Pô Nagar ở Nha Trang, do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động, đã được Việt hóa và trở thành nơi thờ phụng của người Việt quanh vùng.

    Cũng do khác biệt về tôn giáo và đối tượng thờ phụng, nên người Việt, trong nhiều trường hợp, còn sợ các tháp Chăm và đã thêu dệt ra nhiều câu chuyện ly kỳ về những ngôi tháp được truyền tụng trong dân gian là tháp Hời. Vì thế mà khá nhiều tượng thần của người Chăm được người Việt đưa từ những đền tháp đã đổ nát về đền, chùa của mình để thờ tự. Thậm chí, có khi người Việt còn dựng đền hoặc chùa của mình ngay trên những khu đền tháp đổ nát của người Chăm - như điện Hòn Chén ở Huế, chùa Thập Tháp, chùa Nhạn Sơn ở Bình Định.

    Đến giữa thế kỷ XVII, người Chăm đã phải lui hẳn về phía Nam sông Phan Rang. Do đó, chỉ một số ngôi tháp ở vùng cực Nam Trung Bộ, như Pô Klaung Garai, Pô Rômê, Pô Dam, Pô Sanư (Phú Hài), là còn được người Chăm thờ tự cho đến nay. Thế nhưng, quy mô và tính chất thờ phụng ở những ngôi tháp này đã bị thay đổi và thu hẹp nhiều: tính chất cung đình được thay bằng tính dân gian, đền tháp của vương triều trở thành đền thờ của một địa phương nhỏ.

    Chỉ từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, những ngôi tháp Chăm cổ kính và hoang tàn mới thực sự được biết đến như những viên ngọc quý của nền văn hóa cổ Chăm Pa. Công đầu trong việc phát triển và làm cho những viên ngọc quý tháp Chăm tỏa sáng thuộc về các nhà khoa học người Pháp, mà tiêu biểu là E.M. Durand, L. Finot, E. Aymonier và H. Parmentier.

    Sau khi đất nước thống nhất, các ngôi tháp Chăm cổ kính mới thực sự được coi là những di sản văn hóa quý báu của đất nước. Đến nay, hầu hết các di tích tháp Chăm đều được Nhà nước xếp hạng là những di tích quốc gia. Các khu tháp Chăm đều được bảo vệ, gìn giữ.

    Năm 1995, Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới vào năm 1995. Sau nhiều năm tháng bị "lãng quên", giờ đây những đền tháp Chăm mới thực sự tỏa sáng trong kho tàng di sản văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

    Những quyển sách về Văn hóa Chăm Pa mà Thư viện tỉnh Kiên Giang đang lưu trữ và phục vụ:

    Văn hóa cổ Chăm Pa – Ngô Văn Doanh – NXB Văn hóa Dân tộc, (2002).

    Giữ gìn những kiệt tác kiến trúc trong nền văn hóa Chăm – Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh & Nguyễn Quốc Hùng – NXB Văn hóa Dân tộc (2000).

    Tháp bà Thiên Ya Na – Hành trình của một nữ thần – Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Ngô Văn Doanh – NXB Khoa học Xã hội, (2015).

    Thành cổ Chăm Pa – Những dấu ấn của thời gian – Ngô Văn Doanh – NXB Thế giới (2011).

    Tìm hiểu lịch sử Kiến thức tháp Chăm Pa – Lê Đình Phụng – NXB Văn hóa Thông tin (2005).

    Nghệ thuật Chăm Pa Trung kỳ xưa và quá trình diễn tiến – Philippe Stern – NXB Văn hóa Dân tộc (2022).

    Nghệ thuật Chăm Pa - câu chuyện của những pho tượng cổ – Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Ngô Văn Doanh – NXB Mỹ thuật (2016).

    Nghìn năm gốm cổ Chăm Pa – GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung & TS. Nguyễn Anh Thư – NXB Văn hóa Dân tộc (2020).

  • H.Lộc