
Về
nền văn hóa Chăm Pa
Chăm Pa nền văn hoá được
hình thành trên nền tảng nền Văn hoá Sa Huỳnh dọc dải đất duyên hải miền Trung
nước ta. Nền văn hoá Chăm Pa cổ, mà hậu duệ của họ là đồng bào dân tộc Chăm
(hay người Chàm) đã sống chung đụng và giao lưu văn hoá sâu sắc với người Việt
từ hàng ngàn năm. Chủ nhân của nền văn hoá Chăm Pa dùng ngôn ngữ Chăm - thuộc
nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo, ngữ hệ Nam Đảo.
Thời Bắc thuộc, lãnh thổ
Vương quốc Chăm Pa là quận Nhật Nam, liền kề với Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía bắc
Việt Nam.
Theo quyển sách Văn hóa
cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, các cuộc nổi dậy của cư dân quận Giao Chỉ,
Cửu Chân mà tiêu biểu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đã làm cho ách đô hộ của
nhà Hán suy yếu dần.
Lợi dụng thời cơ đó,
cùng vị trí cách xa chính quyền đô hộ, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra tại huyện
Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam. Sau đó, năm 192, dưới sự lãnh đạo của một nhân
vật tên là Khu Liên, cư dân Tượng Lâm đã chấm dứt sự đô hộ của phương Bắc, lập
ra một nhà nước độc lập với tên gọi Lâm Ấp.
Khu Liên là sự chuyển
âm của một từ bản địa: Kurung, tức tộc trưởng, hay vua. Thế là, vào cuối thế kỷ
II, tại vùng trung tâm của nền văn hóa kim khí Sa Huỳnh đã ra đời một nhà nước
– nhà nước Lâm Ấp hay nhà nước của Khu Liên. Giáo sư Trần Quốc Vượng, người chủ
biên công trình Những di tích thời tiền sử và sơ sử ở Quảng Nam - Đà Nẵng, đã
nhận định rằng, “Nhà nước của Khu Liên ở cuối thế kỷ II trong sách cổ Trung Hoa
(Thủy Kinh chú) có lẽ chỉ là sự tái sinh hay hồi sinh của Nhà nước cổ Sa Huỳnh”.
Lâm Ấp, qua các thời kỳ,
lần lượt đổi tên thành Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. Danh xưng Chăm Pa xuất hiện
đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập
đến danh từ Campa-nagara (Vương quốc Champa).
Như nhiều quốc gia cổ đại
khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á, Vương quốc Chăm pa gồm nhiều
tiểu quốc hợp thành, với ít nhất 5 tiểu quốc (được liệt kê theo hướng từ bắc
vào nam) gồm:
1. Indrapura (từ Quảng
Bình đến Thừa Thiên Huế)
2. Amarvati (Quảng Nam,
Đà Nẵng, Quảng Ngãi)
3. Vijaya (Bình Định,
Phú Yên)
4. Kauthara (Khánh Hòa)
5. Panduranga (Ninh Thuận,
Bình Thuận)
Vương quốc Chăm Pa tồn
tại suốt hơn 1300 năm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Chăm Pa từng là một quốc
gia hùng mạnh và có mối liên hệ mật thiết với Đại Việt. Có thời gian, những cuộc
xung đột giữa Đại Việt và Chăm Pa diễn ra liên miên, lại có thời gian hai nước
Đại Việt và Chăm Pa đã cùng liên minh lại với nhau để chống lại giặc Nguyên –
Mông trong suốt một thế kỷ (1287 – 1390). Sau đó là câu chuyện cưới gả giữa hai
triều đình Việt – Chăm.
Đó là cuộc hôn nhân của
công chúa Huyền Trân (con gái vua Trần Nhân Tông), và quốc vương Chăm Pa Chế
Mân (Jaya Simhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, châu Lý (toàn bộ đất của hai
tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị ngày nay).
Cuộc hòa hiếu giữa hai
vương triều không duy trì được lâu, một khoảng thời gian sau, khi vua Chế Mân
băng hà, Chăm Pa và Đại Việt lại tiếp tục rơi vào xung đột.
Sau cuộc viễn chinh của
vua Lê Thánh Tông năm 1471, Chăm Pa coi như chấm dứt sự tồn tại của mình như một
quốc gia độc lập. Từ thời điểm này trở đi, Chăm Pa tiếp tục phải lui dần, lui dần.
Tới năm 1693, tướng
Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga. Từ đây, Panduranga được đổi thành Thuận
Thành Trấn, vua Chăm được gọi là Trấn Vương, cai trị Thuận Thành Trấn, dưới sự
giám sát chặt chẽ của các quan lại thời chúa Nguyễn.
Theo Quốc Triều Chính
Biên Toát yếu, Năm 1832, người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp
có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Vua Minh Mạng
thấy vậy, đổi Thuận Thành trấn thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực
tiếp (tức chấm dứt sự cai trị của vua Chăm). Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính
thức khép lại ở đây.
Những
ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ
Theo quyển sách Văn hóa
cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, Chăm Pa, cũng như ở những quốc gia cổ đại
khác trong khu vực Đông Nam Á, vì tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ để phục
vụ cho vương quyền, nên vua chúa và tầng lớp trên, đã làm cho những ảnh hưởng của
Ấn Độ nhanh chóng bén rễ và trùm lên khắp các lĩnh vực văn hóa cung đình.
Cũng vì nhằm mục đích
phục vụ vương triều, các vua chúa Chăm Pa đã phải nhanh chóng biến những ảnh hưởng
của Ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước mình. Với bia ký Đông Yên Châu
(Quảng Nam) thế kỷ IV-V, Chăm Pa là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á đã dựa trên
văn tự Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ đó trở đi, ở Chăm Pa, bên cạnh
chữ Phạn đã tồn tại và phổ biến chữ viết của người Chăm.
Cũng ngay từ thế kỷ
IV-V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết bên cạnh các vị thần Ấn Độ, các vua
chúa Chăm còn duy trì những tín ngưỡng bản địa. Ví dụ điển hình cho hiện tượng
này là sự tôn kính và sùng bái của các vua chúa Chăm Pa dành cho nữ thần mẹ của
xứ sở - nữ thần Pô Inư Nagar. Muộn hơn việc thờ Pô Nagar là việc triều đình và
dân chúng Chăm Pa đã thần hóa vua chúa của mình (như trong trường hợp thờ vua
Pô Klaung Garai và vua Pô Rômê) và thờ các vị vua đó dưới dạng Siva tại các
tháp lớn.
Khi những ảnh hưởng từ Ấn
Độ tràn tới, người dân Chăm Pa đã tiếp nhận triệt để các mô hình kiến trúc và
nghệ thuật điêu khắc của người Ấn. Tuy vẫn mô phỏng các mô hình đền thờ Ấn Độ, với chất liệu gạch và kỹ thuật xây
dựng gạch kỳ diệu, người Chăm xưa đã tạo ra những ngôi tháp có bản sắc riêng
không lẫn vào đâu được. Cũng như ở Ấn Độ, những đền tháp lớn của Chăm Pa là
hình ảnh biểu tượng cho núi thần Mêru, nơi ngự của các thần linh.
Về
sự trường tồn của đền tháp Chăm
Các đền tháp Chăm đã đứng
vững trước thời gian và khí hậu có phần khắc nghiệt của dải đất miền Trung Việt
Nam. Theo quyển sách Văn hóa cổ Chăm Pa của tác giả Ngô Văn Doanh, nếu xét dưới
góc độ bị bỏ hoặc không được sử dụng thì nhiều tháp Chăm cổ, nhất là những tháp
Chăm ở những nơi không có người Chăm ở (những tháp nằm từ Phú Yên ngược ra tới
đèo Hải Vân), thực sự đã bị lãng quên trong nhiều thế kỷ.
Nếu xét dưới góc độ
không ai biết gì tới hay bị rừng sâu, núi thẳm nuốt chửng như các đền tháp
Angkor, Borobudur, Ajanta... thì, các tháp cổ Chăm Pa lại không bị lãng quên.
Làng xóm của người Việt ở ngay bên các ngôi tháp Chăm cổ kính; tên làng của người
Việt trở thành tên gọi của các ngôi tháp Chăm trong khu vực của làng; thậm chí,
người Việt còn dựng đền miếu của mình ngay trên khu đất của các ngôi tháp Chăm,
và trong một số trường hợp - như đối với tháp Pô Nagar, tháp Nhạn - người Việt
còn dùng luôn các tháp Chăm làm đền thờ của mình. Dù không sử dụng hay sử dụng,
bao giờ người Việt cũng biết các ngôi đền tháp cổ trên đất mình đang ở là của
người Chăm xưa.
Cho đến nay, chưa hề có
(cả trong thư tịch lẫn trên thực tế) trường hợp nào nói tháp Chăm là đối tượng
phá hủy của người Việt, mặc dầu đối tượng thờ phụng của các tháp của người Chăm
rất khác so với người Việt. Trong khi đó, lịch sử nhân loại cho thấy rất nhiều
đền đài miếu mạo nổi tiếng đã bị hủy diệt vì những mâu thuẫn tôn giáo.
Cũng theo tác giả Ngô
Văn Doanh, sự bao dung tôn giáo của người Việt, là một trong những nguyện nhân
quan trọng khiến các tháp cổ Chăm Pa vẫn còn lại khá nhiều và khá nguyên vẹn cho
đến nay.
Theo quyển sách Văn hóa
cổ Chăm Pa, qua những đợt điều tra, nghiên cứu trong nhiều năm qua, tác giả
phát hiện khá nhiều tác phẩm điêu khắc đá, gỗ, đồng của các đền tháp Chăm Pa được
bảo vệ và thờ tự trong các đền, chùa của người Việt ở các tỉnh từ Quảng Nam -
Đà Nẵng tới Bình Thuận.
Cuốn địa lý lịch sử đồ
của triều Nguyễn Đại Nam nhất thống chí đã mô tả, định vị gần như toàn bộ những
ngôi tháp cổ của Chăm Pa một cách khá chi tiết và đầy đủ về mặt địa lý, địa
danh. Do khác biệt về tôn giáo, nên người Việt hầu như đã không sử dụng những
ngôi tháp Chăm tại những nơi mình đến ở làm đền, chùa của mình. Duy nhất, chỉ
tháp Pô Nagar ở Nha Trang, do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động, đã được Việt
hóa và trở thành nơi thờ phụng của người Việt quanh vùng.
Cũng do khác biệt về
tôn giáo và đối tượng thờ phụng, nên người Việt, trong nhiều trường hợp, còn sợ
các tháp Chăm và đã thêu dệt ra nhiều câu chuyện ly kỳ về những ngôi tháp được
truyền tụng trong dân gian là tháp Hời. Vì thế mà khá nhiều tượng thần của người
Chăm được người Việt đưa từ những đền tháp đã đổ nát về đền, chùa của mình để
thờ tự. Thậm chí, có khi người Việt còn dựng đền hoặc chùa của mình ngay trên
những khu đền tháp đổ nát của người Chăm - như điện Hòn Chén ở Huế, chùa Thập
Tháp, chùa Nhạn Sơn ở Bình Định.
Đến giữa thế kỷ XVII,
người Chăm đã phải lui hẳn về phía Nam sông Phan Rang. Do đó, chỉ một số ngôi
tháp ở vùng cực Nam Trung Bộ, như Pô Klaung Garai, Pô Rômê, Pô Dam, Pô Sanư
(Phú Hài), là còn được người Chăm thờ tự cho đến nay. Thế nhưng, quy mô và tính
chất thờ phụng ở những ngôi tháp này đã bị thay đổi và thu hẹp nhiều: tính chất
cung đình được thay bằng tính dân gian, đền tháp của vương triều trở thành đền
thờ của một địa phương nhỏ.
Chỉ từ cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, những ngôi tháp Chăm cổ kính và hoang tàn mới thực sự được biết
đến như những viên ngọc quý của nền văn hóa cổ Chăm Pa. Công đầu trong việc
phát triển và làm cho những viên ngọc quý tháp Chăm tỏa sáng thuộc về các nhà
khoa học người Pháp, mà tiêu biểu là E.M. Durand, L. Finot, E. Aymonier và H.
Parmentier.
Sau khi đất nước thống
nhất, các ngôi tháp Chăm cổ kính mới thực sự được coi là những di sản văn hóa
quý báu của đất nước. Đến nay, hầu hết các di tích tháp Chăm đều được Nhà nước
xếp hạng là những di tích quốc gia. Các khu tháp Chăm đều được bảo vệ, gìn giữ.
Năm 1995, Thánh địa Mỹ
Sơn (Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới vào năm
1995. Sau nhiều năm tháng bị "lãng quên", giờ đây những đền tháp Chăm
mới thực sự tỏa sáng trong kho tàng di sản văn hóa của đại gia đình các dân tộc
Việt Nam.
Những
quyển sách về Văn hóa Chăm Pa mà Thư viện tỉnh Kiên Giang đang lưu trữ và phục
vụ:
Văn hóa cổ
Chăm Pa – Ngô Văn Doanh – NXB
Văn hóa Dân tộc, (2002).
Giữ gìn những
kiệt tác kiến trúc trong nền văn hóa Chăm –
Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh & Nguyễn Quốc Hùng – NXB Văn hóa Dân tộc
(2000).
Tháp bà Thiên
Ya Na – Hành trình của một nữ thần
– Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Ngô Văn Doanh – NXB Khoa học Xã hội, (2015).
Thành cổ Chăm
Pa – Những dấu ấn của thời gian –
Ngô Văn Doanh – NXB Thế giới (2011).
Tìm hiểu lịch
sử Kiến thức tháp Chăm Pa –
Lê Đình Phụng – NXB Văn hóa Thông tin (2005).
Nghệ thuật
Chăm Pa Trung kỳ xưa và quá trình diễn tiến –
Philippe Stern – NXB Văn hóa Dân tộc (2022).
Nghệ thuật
Chăm Pa - câu chuyện của những pho tượng cổ –
Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Ngô Văn Doanh – NXB Mỹ thuật (2016).
Nghìn năm gốm
cổ Chăm Pa – GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung
& TS. Nguyễn Anh Thư – NXB Văn hóa Dân tộc (2020).