
Người Mạ ở Việt Nam /
Ban biên tập NXB Thông tấn. – H. : Nxb Thông tấn, 2014. -. - 174tr., 20cm
Quý bạn đọc thân mến! Tây
Nguyên là vùng đất giàu văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều tộc người bản địa từ
xa xưa. Ngày nay, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã hòa nhập vào cuộc sống hiện
đại, chung sống hòa thuận trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong sự hội
nhập ấy, họ vẫn bảo tồn được những tập quán, tín ngưỡng đã có từ thời cổ sơ,
góp phần tạo nên những giá trị văn hóa quý giá của vùng đất này.
Thư viện tỉnh Kiên
Giang trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc quyển sách Người Mạ ở Việt Nam. Sách
dày 174 trang, in trên khổ 20 cm, do NXB Thông tấn ấn hành vào năm 2014.
Với hệ thống những nội
dung và hình ảnh được thẩm định bởi nhà Dân tộc học Chu Thái Sơn, quyển sách Người
Mạ ở Việt Nam mang đến cho người đọc những thông tin chuẩn xác về dân tộc
Mạ.
Mở đầu quyển sách –
chương Nguồn gốc và phân bố dân cư, bạn
đọc sẽ được tìm hiểu về dân tộc Mạ qua hai phương diện: Về ngôn ngữ, tiếng nói
của người Mạ được xác định thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer, gần gũi với tiếng
nói của người Cơ Ho, Mnông, Xtiêng; Về địa bàn cư trú, qua bản đồ minh họa, người
đọc dễ dàng định vị được Lâm Đồng và Đồng Nai chính là nơi người Mạ đã sinh sống
từ lâu đời.
Ở chương Buôn làng, nhà ở, bạn đọc sẽ biết được rằng
đồng bào Mạ sống theo từng bon, tương
tự như buôn làng, với phạm vi rộng. Ngoài khu vực sinh sống và trồng trọt chăn
nuôi, còn có cả những khu vực cho rừng tái sinh. Bon của người Mạ không có ngôi nhà công cộng (nhà Rông), mà là tập
hợp của một hay một vài nếp nhà sàn, mà theo nhận định trong quyển sách, đây là
dấu hiệu của xã hội phụ hệ sơ kỳ. Tiếp sau đó là loạt những thông tin và hình ảnh
mô tả trực quan về nguyên liệu, cấu trúc, cách bày trí không gian của ngôi nhà
người Mạ.
Sau khi tìm hiểu về nơi
ở, người đọc sẽ được biết thêm về đời sống sản xuất của đồng bào Mạ qua chương Nguồn sống. Ở chương này, sách sẽ cung cấp
thông tin về cách canh tác nương rẫy, chăn nuôi, săn bắt, hái lượm và đánh cá;
bên cạnh đó là những nghề thủ công như kéo sợi dệt vải, đan mây tre, làm mộc,...
Nghề nông của người Mạ còn bảo lưu phương pháp cổ truyền với nhiều nông cụ như:
cây gậy chọc lỗ để tra hạt giống dài 3m,
chiếc gùi nhỏ để đựng hạt giống để gieo vãi, cái nạo cỏ lưỡi cong,... Với hệ
thống hình ảnh minh họa phong phú, ta còn được thấy hình ảnh của các loại giỏ đựng
và dụng cụ đánh bắt tôm cua với những hình thù thú vị. Tiếp đến, cuối chương
Nguồn sống là mục Ẩm thực, giới thiệu cho người đọc về bữa ăn của người Mạ,
trong ngày thường cũng như trong các dịp đặc biệt. Cách lấy lửa cũng được ghi lại
bằng hình ảnh. Ngoài các bữa ăn, người Mạ cũng hút thuốc lá sợi bằng tẩu và uống
rượu cần.
Ở chương Y phục, trang sức, quý bạn đọc sẽ biết
được người Mạ cũng nằm trong số các dân tộc có dạng thức chung về trang phục và
trang sức ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên. Với y phục, người Mạ thường quan
trọng hơn đến bộ phận che nửa thân dưới. Với nữ, họ mặc váy dài tới gối. Với
nam, họ đóng khố. Cả nam và nữ đều có loại áo chui đầu. Áo có màu trắng ngà, được
thêu họa tiết, còn váy thường tối màu, thường là màu đen. Nhưng khi sinh hoạt ở
nhà, cả nam và nữ, dù già hay trẻ, vẫn cởi trần. Về trang sức, người mạ có vòng
tay bằng đồng, đeo chuỗi hạt ở cổ. Xem hình ảnh, bạn đọc hình dung được cách ăn
mặc, qua đó hiểu hơn về nét đẹp thẩm mỹ của đồng bào Mạ.
Sau khi trình bày về đời
sống vật chất của người Mạ, quyển sách sẽ đưa người đọc tìm hiểu về đời sống
tinh thần của dân tộc Mạ qua chương Phong
tục, lễ hội. Về quan niệm họ tộc, đồng bào Mạ không có họ, nhưng vẫn có nơi
thờ tổ tiên theo dòng của người
cha. Họ có nhiều kiêng cữ trong lao động và sinh hoạt, những kiêng cữ thường được
gắn liền với sự xuất hiện của các loài động vật hoang dã như một dấu hiệu. Người
Mạ theo tín ngưỡng đa thần, còn bảo lưu được những niềm tin có từ thời nguyên
thủy – “Vạn vật hữu linh”, có hệ thống
các thần linh (ngôn ngữ Mạ gọi là “Yang”),
với thần Rđen là tổ sư nghề rèn, Yang Ndu là thần sáng tạo, Nữ thần lúa,...
Trong chương này, qua
loạt ảnh ký sự, cùng các dòng thông tin, chú thích, người đọc sẽ thấy được nét
đặc sắc của một số lễ hội tiêu biểu của đồng bào Mạ như: Lễ cúng thần rừng (Yu Yang Bri), Lễ mừng lúa mới (Yu Rhe) – với tục dựng cây nêu và hiến sinh trâu; ngày hội Krau (ngày hội bắt cá) – với
cách bắt cá độc đáo: thuốc cá bằng một chất độc có trong vỏ và lá của cây krau.
Đồng hành với các các lễ hội là dàn nhạc cụ: bộ chiêng gồm 6 chiếc không có
núm, Kơnung (kèn sừng trâu hoặc sừng dê), B’re (sáo bầu 3 lỗ) và K’mboắt (kèn bầu
6 ống trúc).
Về nghi lễ vòng đời của
đồng bào Mạ, nổi bật lên là hôn nhân và tang ma. Về hôn nhân, người Mạ thường
có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc, nhưng cũng không cấm quan hệ hôn nhân
với dân tộc khác, nhất là với người Cơ Tu. Người Mạ theo phụ hệ, nhưng theo quyển
sách: “Người con gái Mạ rất cao giá khi
được cầu hôn”. Trong hôn lễ, người Mạ có nghi thức cúng thần linh để che chở
sức khỏe cho hai gia đình, dùng gà làm vật hiến tế, nghi thức “đắp tấm mền chung” do ông mối thực hiện
cho cô dâu chú rễ. Về tang ma, sách viết “...đồng
bào Mạ theo nghi thức thổ táng. Mỗi làng đều có khu đất làm nghĩa địa”.
Quan tài của người Mạ mô tả theo hình con trâu. Với quan niệm người chết vẫn tiếp
tục cuộc đời ở thế giới bên kia, người Mạ an táng theo người chết nhiều đồ vật
theo quan tài, huyệt mộ.
Người Mạ ở Việt Nam là quyển sách sống
động về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Mạ. Quyển sách ghi lại toàn
cảnh đời sống, từ nguồn gốc, phân bố dân cư, buôn làng, nhà ở, nguồn sống, y phục,
trang sức, cho đến phong tục, lễ hội, của một tộc người còn lưu giữ những huyền
thoại dân gian về một “công quốc Mạ”
từng tồn tại ở vùng Nam Tây Nguyên, và có cả một phần vùng cao Đông Nam Bộ. Đọc
quyển sách, người đọc sẽ thấy được nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mạ, thấy được
vẻ đẹp của đất và người nơi đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ.
Quyển sách hiện đang được
trưng bày và phục vụ tại Thư viện tỉnh Kiên Giang. Thân mời quý bạn đọc đến
tham quan và tìm đọc!